|
Digital Library >
Bộ danh mục tài liệu thư viện - Viện Hải dương học - VNIO library catalogue >
Cơ sở dữ liệu Thư viện Hải dương học - VNIO's library catalogue (Bibliographic record, not full-text) >
Please use this identifier to cite or link to this item:
http://tvhdh.vnio.org.vn:8080/xmlui/handle/123456789/21409
|
Title: | Đo lường đóng góp giá trị tăng thêm của kinh tế biển vào tổng sản phẩm trong nước của Việt Nam |
Authors: | Nguyễn, Đình Thọ Kim, Thị Thúy Ngọc Lê, Thị Lệ Quyên Ngô, Như Vẻ |
Keywords: | Việt Nam Kinh tế biển |
Issue Date: | 2024 |
Series/Report no.: | Môi Trường, Số 6: trang 12-16, 2024; |
Abstract: | Biển và các ngành kinh tế biển (KTB) nói chung đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia thông qua việc cung cấp nguồn thực phẩm, việc làm, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cũng như thúc đẩy thương mại thông qua đường biển. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về chiến lược phát triển bền vững (PTBV) KTB Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, thể hiện rõ mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển. KTB là các hoạt động kinh tế diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp trên đại dương và sử dụng sản phẩm đầu ra từ đại
dương, đồng thời cung cấp sản phẩm hàng hóa, dịch vụ vào các hoạt động kinh tế của đại dương. Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu về khái niệm, phạm vi của KTB nhưng vẫn còn thiếu các nghiên cứu về đóng góp giá trị tăng thêm của KTB vào tổng sản phẩm trong nước (GDP). Nghiên cứu đã sử dụng nguồn thông
tin từ Bảng cân đối liên ngành (IOT) để tính toán được đóng góp tổng giá trị tăng thêm (VA) của KTB theo giá hiện hành vào GDP của Việt Nam. Kết quả cho thấy, trong năm 2020, tổng giá trị tăng thêm của KTB đóng góp vào GDP trong nước là 7,2%, trong đó, ngành khai thác dầu thô, khí đốt thiên nhiên có tỷ trọng
đóng góp lớn nhất (21,5%); tiếp đó là ngành khai thác, nuôi trồng thủy sản biển (19,2%); hoạt động vận tải, dịch vụ hỗ trợ vận tải biển (15%); chế biến dầu mỏ (14,9%); chế biến thủy sản biển (7,1%). Việc tính toán giá trị tăng thêm của KTB vào GDP có ý nghĩa trong việc xác định giá trị của tài nguyên biển và ven biển trong phát triển kinh tế - xã hội, từ đó có những can thiệp phù hợp để phát huy giá trị của tài nguyên biển và ven biển, giảm tác động từ các ngành/lĩnh vực đến hệ sinh thái, môi trường biển và ven biển. |
URI: | http://tvhdh.vnio.org.vn:8080/xmlui/handle/123456789/21409 |
Appears in Collections: | Cơ sở dữ liệu Thư viện Hải dương học - VNIO's library catalogue (Bibliographic record, not full-text)
|
Files in This Item:
There are no files associated with this item.
|
Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.
|